Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh chóng; chẳng hạn, vào năm 2022, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là hơn 8%. Sự tăng trưởng kinh tế này diễn ra đồng thời với sự gia tăng nhu cầu năng lượng và đòi hỏi các giải pháp sáng tạo để đảm bảo an ninh năng lượng. Năng lượng ở Việt Nam, chủ yếu được sản xuất từ than đá, ước tính chiếm khoảng 70% tổng lượng phát thải của Việt Nam vào năm 2030. Điều đáng khích lệ là Chính phủ Việt Nam đã tăng gấp bốn lần công suất năng lượng mặt trời và gió kể từ năm 2019.
Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã cam kết đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 tại COP26. Vào tháng 12/2022, Việt Nam, các nước G7, Châu Âu, Đan Mạch và Na Uy đã ký kết Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP), theo đó cam kết ban đầu trị giá 15,5 tỷ USD sẽ được huy động để hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam, nhằm giảm 30% lượng phát thải cao nhất hàng năm từ ngành năng lượng, gia tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong sản xuất điện từ 36% lên ít nhất 47% vào năm 2030, điều chỉnh giảm lượng than đá tối đa và đỉnh phát thải vào năm 2030 thay vì năm 2035.
Hydro xanh sẽ sớm trở thành nguồn năng lượng thay thế tối ưu. Ảnh minh họa
Tại Hội thảo tham vấn về sản xuất và sử dụng hydro xanh từ các nguồn năng lượng mặt trời và năng lượng gió tại Việt Nam, ông Lê Việt Cường, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng cho biết: Trong nghiên cứu chung của UNDP và Viện Năng lượng cho thấy, sản xuất hydro xanh là phương pháp sản xuất nhiên liệu hydro thân thiện với môi trường bằng cách sử dụng điện từ năng lượng mặt trời hoặc năng lượng gió, theo đó quá trình điện phân được sử dụng để tách nước thành hydro và oxy. Công nghệ này có thể giảm đáng kể lượng phát thải các bon và góp phần giảm thiểu biến đổi khí hậu.
Tỷ lệ sản xuất hydro xanh toàn cầu từ quá trình điện phân nước là không đáng kể và năm 2020 chỉ chiếm 0,03% sản lượng hydro của thế giới. Tuy nhiên, đến năm 2030, khi các công nghệ điện phân sẽ phát triển vượt bậc và chi phí cho năng lượng tái tạo dự kiến sẽ giảm, hydro xanh sẽ là một lựa chọn khả thi hơn về mặt tài chính. Các quốc gia có tiềm năng cao về năng lượng tái tạo, có mối quan hệ thương mại tốt, ổn định chính trị và có vị trí địa lý gần các nhà nhập khẩu lớn ở Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương sẽ hưởng lợi từ công nghệ này.
Tuy nhiên, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng nhấn mạnh, sản xuất và sử dụng hydro xanh là một lĩnh vực mới đối với Việt Nam. Để triển khai sản xuất và sử dụng hydro xanh, cần hiểu và cập nhật những kiến thức cần thiết về các điều kiện cần thiết, các thuận lợi, khó khăn, thách thức về nguồn lực, tài chính, các điều kiện pháp lý giúp cho các nhà phát triển, các nhà sử dụng, cơ quan quản lý, các đơn vị tư vấn… định hướng phát triển, chuẩn bị và hỗ trợ phát triển phù hợp với nhu cầu.
Ông Patrick Haverman, Phó trưởng đại diện thường trú UNDP Việt Nam phân tích, hydrogen xanh được coi là nguồn năng lượng mới, và sẽ sớm trở thành nguồn năng lượng thay thế tối ưu. Việc sản xuất hydrogen xanh và các chất mang năng lượng như amoniac và các nhà máy năng lượng tái tạo có thể đáp ứng một phần nhu cầu lưu trữ và tiêu thụ năng lượng của Việt Nam trong lĩnh vực giao thông vận tải và các lĩnh vực khác. Hydrogen xanh cũng có thể giúp Việt Nam đạt được các cam kết tại COP26. UNDP sẽ tiếp tục hợp tác với Viện Năng lượng trong sản xuất và sử dụng hydrogen xanh, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng xanh tại Việt Nam
Hydrogen xanh cũng có thể giúp Việt Nam đạt được các cam kết tại COP26. UNDP sẽ tiếp tục hợp tác với Viện Năng lượng trong sản xuất và sử dụng hydrogen xanh, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng xanh tại Việt Nam".
Bên cạnh đó, nghiên cứu chung cũng chỉ ra 3 nội dung quan trọng gồm ước tính thực tế về hydrogen xanh, chi phí quy dẫn của hydrogen và vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc đặt mục tiêu, xây dựng chiến lược và quy định cũng như cung cấp các ưu đãi dựa trên thị trường.
Phân tích cho thấy, nếu các máy điện phân chạy 90% công suất liên tục năm thì có thể sản xuất được ít nhất 11,49 triệu tấn hydrogen xanh trong năm 2020, và đến 2050 có thể lên đến 18,78 triệu tấn. Mặc dù chi phí sản xuất hydrogen dự kiến sẽ giảm đáng kể do chi phí công nghệ đầu vào giảm, nhưng chi phí này ở Việt Nam vẫn cao hơn các mục tiêu đặt ra trong các nền kinh tế khác.
Đồng thời, nghiên cứu nhấn mạnh rằng các Chính phủ cần đặt mục tiêu, xây dựng các quy định và đưa ra các biện pháp khuyến khích để thúc đẩy quá trình giảm carbon. Tuy nhiên, việc xây dựng luật pháp, tiêu chuẩn và quy tắc thương mại về hydrogen vẫn đang ở giai đoạn đầu trên toàn cầu. Nhiều quốc gia đã thực hiện các biện pháp tạm thời để đảm bảo môi trường đầu tư lành mạnh. Các nhà đầu tư trong ngành cũng phải đặt ra các mục tiêu kỹ thuật để giảm chi phí sản xuất máy điện phân thông qua việc nâng cao năng lực, nghiên cứu và phát triển cũng như các ứng dụng ngành phù hợp.