Ngân hàng Thế giới (WB) vừa có buổi họp công bố Báo cáo Cập nhật tình hình kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương kỳ tháng 10/2022 trong đó dự báo nền kinh tế Việt Nam hồi phục mạnh và GDP sẽ tăng trưởng 7,2% trong năm 2022.
Trước đó vào tháng 8, WB dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tăng mạnh từ 2,6% trong năm 2021 lên 7,5% trong năm 2022, còn lạm phát được dự báo tăng trung bình 3,8%.
Theo WB, tăng trưởng tại hầu hết các quốc gia đang phát triển khu vực Đông Á và Thái Bình Dương đã phục hồi trong năm 2022 sau khi bị Covid-19 gây ảnh hưởng, trong khi đó Trung Quốc bị lỡ đà tăng trưởng do tiếp tục các biện pháp kiềm chế virus, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới được công bố hôm nay.
Trong thời gian tới, kết quả kinh tế trên khắp khu vực có thể bị ảnh hưởng do nhu cầu trên toàn cầu chững lại, nợ gia tăng, và tình trạng lệ thuộc vào các biện pháp xử lý kinh tế ngắn hạn nhằm chống đỡ giá lương thực thực phẩm và nhiên liệu tăng cao.
Tốc độ tăng trưởng của các quốc gia đang phát triển khu vực Đông Á và Thái Bình Dương ngoài Trung Quốc được dự báo sẽ tăng tốc lên 5,3% trong năm 2022 so với 2,6% trong năm 2021, theo Báo cáo Cập nhật Tình hình Kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương kỳ tháng 10/2022 của Ngân hàng Thế giới. Trung Quốc, trước đó là quốc gia dẫn dắt phục hồi trong khu vực, hiện đang được dự báo sẽ tăng trưởng 2,8% trong năm 2022, giảm mạnh so với 8,1% trong năm 2021.
Trong toàn khu vực, tăng trưởng được dự báo sẽ chững lại còn 3,2% trong năm nay, so với 7,2% trong năm 2021, trước khi tăng lên 4,6% trong năm tới, theo nhận định tại báo cáo.
Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới phụ trách Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương Manuela V. Ferro cho rằng, “Quá trình phục hồi kinh tế đang diễn ra ở hầu hết các quốc gia trong khu vực Đông Á và Thái Bình Dương. Vừa phải chuẩn bị cho tốc độ tăng trưởng trên toàn cầu chững lại, các quốc gia vừa cần xử lý những méo mó chính sách trong nước đang gây trở ngại cho phát triển trong dài hạn”.
Tăng trưởng ở hầu hết các nước trong khu vực Đông Á và Thái Bình Dương có được nhờ nhu cầu trong nước phục hồi, do các biện pháp hạn chế liên quan đến Covid được nới lỏng, và nhờ tăng trưởng xuất khẩu. Trung Quốc, là quốc gia đóng góp khoảng 86% sản lượng của khu vực, hiện đang áp dụng các biện pháp y tế công cộng có mục tiêu nhằm kiềm chế vi-rút lây lan, gây cản trở đến các hoạt động kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế toàn cầu chững lại đang dần làm giảm nhu cầu về các mặt hàng xuất khẩu và các sản phẩm chế tạo chế biến xuất khẩu của khu vực. Lạm phát tăng đồng loạt khiến cho lãi suất cũng tăng lên, qua đó làm cho dòng vốn chạy ra ngoài và đồng tiền mất giá tại một số quốc gia Đông Á và Thái Bình Dương. Những diễn biến đó làm tăng gánh nặng trả nợ và thu hẹp dư địa tài khóa, ảnh hưởng xấu đến các quốc gia rơi vào đại dịch với gánh nặng nợ cao.
Cũng theo báo cáo của WB, trong quá trình các quốc gia trong khu vực tìm cách phòng vệ cho các hộ gia đình và doanh nghiệp khi giá cả lương thực thực phẩm và nhiên liệu tăng cao, các biện pháp chính sách hiện nay chỉ mang tính hỗ trợ đáp ứng nhu cầu, nhưng lại làm gia tăng những méo mó chính sách hiện tại.
Các biện pháp kiểm soát giá thực phẩm và trợ giá năng lượng đem lại lợi ích cho người giàu và ảnh hưởng đến chi tiêu của chính phủ cho hạ tầng, giáo dục và y tế. Các biện pháp cho phép giãn hoãn thời gian trả nợ hiện nay, nhằm nới lỏng điều kiện cho vay trong thời gian đại dịch, có thể khiến cho nguồn lực bị kẹt ở những doanh nghiệp thất bại, khiến cho vốn không đến được những ngành nghề và lĩnh vực năng động nhất.
Theo chuyên gia kinh tế trưởng khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới, Aaditya Mattoo, "các nhà hoạch định chính sách đang phải đối mặt với lựa chọn khó khăn giữa xử lý lạm phát và hỗ trợ phục hồi kinh tế. Kiểm soát và trợ giá làm mờ đi tín hiệu giá và ảnh hưởng đến năng suất. Chuyển sang những chính sách tốt hơn về lương thực thực phẩm, nhiên liệu và tài chính sẽ vừa thúc đẩy tăng trưởng vừa phòng chống lạm phát”.